Các Bệnh Tim Mạch

Bệnh tăng huyết áp – Nguyên nhân, tác hại và cách chữa trị

Tăng huyết áp (hay còn được gọi là tăng huyết áp động mạch) là một bệnh mạn tính trong đó áp lực máu hệ thống động mạch tăng cao

tăng-huyết-áp

Nguyên nhân:

Ðến 90% các trường hợp cao áp huyết,nguyên nhân của bệnh chưa được biết rõ,hoặc nói cách khác,với trình độ y khoa hiện tại,người ta chưa tìm ra được nguyên nhân.Một số như các trường hợp cao áp huyết gây do uống rượu nhiều quá,do bệnh của tuyến nội tiết,bệnh thận.

Một số yếu tố sau cũng ảnh hưởng tới việc mắc bệnh tăng huyết áp:

  • Yếu tố gia đình: Cao áp huyết có tính di truyền.Có cha mẹ,anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ,bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này bạn nhé.
  • Ðàn ông: Ðàn ông dễ cao áp huyết hơn phụ nữ.Tuy vậy,phụ nữ,sau khi mãn kinh, cũng dễ cao áp huyết hơn lúc còn kinh.
  • Tuổi tác: Cao áp huyết dễ xảy ra sau tuổi 35.
  • Nòi giống: Người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.
  • Béo mập: Khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.
  • Bệnh tiểu đường: Tiểu đường và cao áp huyết như đôi bạn thân,hay đi đôi với nhau, lại cùng nhau phá hoại tim và thận mạnh hơn.
  • Rượu: Các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết,đồng thời cũng làm tăng tỷ lệ bị tai biến mạch máu não và bệnh thận.
  • Ðời sống thiếu vận động: Ðời sống thiếu vận động dễ gây béo mập và béo mập,như đã biết,có thể đưa đến cao áp huyết.

Tác hại:

Bệnh cao áp huyết (hypertension,high blood pressure) nguy hiểm,đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke),chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim,suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ. Trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều người không biết mình mang bệnh, tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác, được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên,cao áp huyết nổi danh là một ‘’căn bệnh thầm lặng’’.

Chữa Trị:

Điều chỉnh lối sống:

Bước đầu trong điều trị tăng huyết áp phải thay đổi lối sống hợp lý bao gồm: chế độ ăn, tập thể dục, giảm cân. Thay đổi lối sống có thể giảm huyết áp ở một số bệnh nhân. Hiệu quả của chúng tương tự như sử dụng thuốc. Nếu huyết áp vẫn cao phải sử dụng thuốc ngay, khuyến cáo điều trị ở trường hợp này là điều chỉnh lối sống kết hợp với sử dụng thuốc.

Chế độ ăn ít muối rất có lợi. Nghiên cứu đối với người châu Âu (Caucasians) cho thấy nếu thực hiện chế độ ăn ít muối trong hơn 4 tuần nhận thấy sẽ giảm huyết áp, ở cả người bình thường lẫn bệnh nhân tăng huyết áp. Chế độ ăn DASH (Dietary Approaches to Stop Hypertension), chế độ ăn giàu hạt dẻ, cá, gia cầm, trái cấy và rau quả giảm huyết áo. Điều quan trọng là phải hạn chế hấp thu Natri, Mặc dù chế độ ăn cũng giàu kali, magnesium, calci, protein. Những phương pháp điều trị khác hướng đến giảm những căng thẳng thần kinh như biofeedback, thư giãn hoặc thiền có thể điều trị huyết áp. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng không bằng giáo dục chăm sóc sức khỏe, với những nhận thức những lối sống không tốt

Điều trị bằng thuốc:

Điều trị ban đầu tốt nhất còn đang tranh cãi của Cochrane collaboration, WHO và Hoa Kỳ sử dụng thuốc lợi tiểu thiazide liều thấp. Hướng dẫn của liên hiệp Anh (UK) nhấn mạnh nên sử dụng nhóm thuốc block kênh calci (CCB) cho người trên 55 tuổi hoặc người gốc Phi hoặc Caribbe, còn đối với thanh niên nên sử dụng nhóm thuốc ức chế enzyme chuyển hóa angiotensin (ACE-I). Ở Nhật có thể bắt đầu điều trị với 1 trong 6 nhóm thuốc: CCB, ACEI/ARB, lợi tiểu thiazide, beta-blockers, alpha-blockers đều phù hợp, Trong khi Canada và châu Âu tất cả các nhóm nhưng nhóm thuốc alpha-blockers cần khuyến cáo.

Điều trị bằng kết hợp thuốc:

Phần lớn bênh nhân cần điều trị hơn một loại thuốc để kiểm soát huyết áp. Trong trường hợp huyết áp tâm thu lớn hơn 160 mm Hg hoặc huyết áp tâm trương lớn hơn 100 mmHg Hiệp hội tim mạch Hoa kỳ (American Heart Association) khuyến cáo bắt đầu kết hợp một thiazide và một ACEI, ARB hoặc CCB, hoặc kết hợp một ACEI và CCB cũng hiệu quả.

Không cho phép kết hợp thuốc chẹn kênh calci nhóm non-dihydropyridine (như verapamil hoặc diltiazem) với một beta-blockers, thuốc phong tỏa hệ thống renin–angiotensin (ví dụ: ức chế enzyme chuyển hóa angiotensin + angiotensin receptor blocker), hệ thống renin–angiotensin blockers và beta-blockers. Kết hợp ACE-inhibitor hoặc đối kháng angiotensin II–receptor, một thuốc lợi tiểu và một NSAID (bao gồm ức chế chọn lọc COX-2 và những thuốc không kê đơn như ibuprofen).

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button