Cây Thuốc Quanh Ta

Tìm hiểu về cây nhàu (MORINDA CITRIFOLIA L)

CÂY NHÀU MORINDA CITRIFOLIA L.

Tìm hiểu về cây nhàu

  • Ngành: Magnoliophyta
  • Lớp: Magnoliopsida
  • Phân lớp: Lamiidae
  • Bộ: Gentianales
  • Họ: Rubiaceae
  • Giống: Morinda
  • Loài: Morinda citrifoliaL.
  • Tên thường dùng: Cây Nhàu

Đặc điểm hình thái

Nhàu là cây thân gỗ, hoàn toàn nhẵn, có thể cao từ 6 m – 8 m, lá mọc đối, hình bầu dục, đầu nhọn, dài từ12 cm – 15 cm, rộng 6 cm – 8 cm. Hoa trắng, hợp thành đầu. Quảnạc, dài 5 cm – 10 cm, gồm nhiều quả mọng nhỏ, màu vàng lục nhạt, bóng, dính với nhau, chứa 1 hạt có phôi nhũ cứng. Không giống những hạt khác, hạt Nhàu có một buồng chứa khí nên có thể nổi trên mặt nước và vẫn nẩy mầm sau khi nổi trên mặt nước trong nhiều tháng (Nelson, 2003).

Phân bố

Cây Nhàu có nguồn gốc từ Nam Á (Indonesia) và Châu Úc, phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… Cây thường mọc ở độ cao từ0 m – 500 m tính từ mực nước biển. Nhàu có thể được tìm thấy ở vùng gần bờ biển, núi đá vôi, đảo san hô (Nelson, 2003). Ở nước ta, Nhàu mọc nhiều ở những vùng ẩm thấp dọc theo bờ sông, suối, ao hồ hoặc mương rạch ở khắp các tỉnh miền Nam và một số tỉnh miền Trung.

Nhân giống cây nhàu

Vì Nhàu ra hoa và kết trái quanh năm nên phương pháp nhân giống phổ biến hiện nay vẫn là gieo hạt. Khi chín, trái sẽ chuyển sang màu trắng và bốc mùi, đây là thời điểm để thu hái. Người ta thường tách hạt khỏi thịt quả, sấy khô và trữ trong túi giấy ở nhiệt độ phòng. Hạt sử dụng tốt trong vòng một năm. Tuy nhiên, vì vỏ hạt rất cứng, nên nếu hạt không được xử lý thì thời gian nẩy mầm có thể từ 6 – 12 tháng.

Nếu hạt được cắt bỏ vỏ và khử trùng thì thời gian nẩy mầm khoảng 20 – 120 ngày. Cây con 8 – 12 tuần tuổi rất dễ bị sâu bệnh tấn công và có thể được trồng bên ngoài khoảng 2 – 12 tháng sau khi nẩy mầm (Nelson, 2003).

Thành phần hóa học của rễ Nhàu

Trong ngành y học cổ truyền, Nhàu được xem là một cây thuốc quý vì hầu hết các bộ phận của cây đều có thể làm thuốc. Tuy nhiên, trong các bộ phận của cây Nhàu, rễ có nhiều dược tính nên được sử dụng nhiều trong y học để trị các bệnh như cao huyết áp, giảm đau, an thần, tăng cường miễn dịch…

Vỏ rễ Nhàu chứa nhiều hợp chất thứ cấp như: morindon (trihydroxymethylanthraquinon), chủ yếu dưới dạng glucosid là morindin. Ngoài ra, rễ còn chứa acid rubicloric, alizarin α-methyl ether, rubiadin 1-methyl ether, 2 đồng phân dihydroxymethyl anthraquinon (morindadiol và soranjidiol) và 2 trihydroxymethyl anthraquinon monomethyl ether và selen. Một số hợp chất khác có trong rễ Nhàu là
2-methyl-7-hydroxyl-8-methoxy anthraquinon, 2-methyl-3,5-dimethoxy-6-hydroxyanthraquinon (morenon-1), 1-8-dihydroxy-7-methoxy-anthraquinon (morenon-2) (Sastri, 1962).

Tình hình nghiên cứu về những chất chiết xuất từ rễ Nhàu

Các nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam và thế giới tập trung về việc phân tích thành phần hóa học, ly trích và khảo sát dược tính của các hợp chất có trong rễ Nhàu.

Các nghiên cứu trong nước

Các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về thành phần hóa học và tính chất trị liệu của những chất chiết xuất từ rễ Nhàu từ nhiều năm qua:

  • Năm 1954, bác sĩ Đặng Văn Hồ đã chứng minh dịch trích toàn phần từ rễ Nhàu có tác dụng làm hạ huyết áp (Youngken và cộng sự, 1960).
  • Năm 2004, tác giả Nguyễn Ngọc Sương và cộng sự thuộc khoa Hóa, trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên đã cô lập một acid triterpen từ cao alcol của rễ cây Nhàu, Morinda citrifolia L.. Acid này được nhận danh là acid ursolic dựa trên các dữl iệu phổ nghiệm.
  • Năm 1998, theo kết quả kiểm chứng của TS. Đỗ Quốc Việt và cộng sự cho thấy hai chất được phân lập từ rễ Nhàu là Damnacathal và Nordamnacathal có tác dụng gây độc ở cả hai dòng tế bào ung thư: dòng ung thư tế bào tiết hắc tố B16 và ung thư máu dòng L. 1210.

Các nghiên cứu ngoài nước

Tác dụng dược lý

  • Năm 1992, tác giả Umezawa và cộng sự đã ly trích một phức hợp từ rễ Nhàu có tên là 1-methoxy 2-foremyl-3-hydroxyanthraquinone có thể đàn áp sự xâm nhiễm của HIV lên các tế bào MT-4 mà không kìm hãm sự phát triển của tế bào.
  • Năm 1993, Damnacanthal được trích từ rễ Nhàu là một tác nhân kìm hãm chức năng của gen ras-gen gây ung thư phổi, ruột kết, và tuyến tụy (Hiramatsu và cộng sự, 1993).

Hơn nữa, trong công nghiệp dệt, Antraquinone là một nhóm chất nhuộm tự nhiên màu vàng hoặc đỏ có trong rễ nhiều loài Morindasp. Chất nhuộm này được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp nhuộm vải ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là phía Bắc Thái Lan (Aobchey và cộng sự, 2002).

Các nghiên cứu in-vitro

  • Năm 2003, tác giả Stalman và cộng sự đã điều hòa sinh tổng hợp anthraquinone trong nuôi cấy cây Nhàu Morinda citrifoliaL.. Kết quả cho thấy, sự sinh tổng hợp Anthraquinone ở cây Nhàu bị cản mạnh bởi 2,4-D nhưng không nhiều bởi NAA. Cả hai auxin này đều ngăn cản sự tổng hợp isochorismate làm giảm tích lũy anthraquinone.
  • Năm 2005, tác giả Komaraiaha và cộng sự đã tìm cách gia tăng sự tích lũy anthraquinone trong nuôi cấy dịch treo Morinda citrifoliaL. bằng cách thêm các chất khơi mào (elicitor) và thay đổi hàm lượng đường trong môi trường nuôi cấy.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button